ĐIỀU KIỆN NỘI DUNG CỦA KẾT HÔN: KHÔNG VI PHẠM ĐIỀU CẤM
I. MẶT SINH HỌC
I.1. Khác biệt về giới tính
Giới tính
10._ Một cách đơn giản, giới tính1 là tất cả đặc điểm nhằm phân biệt người nam với người nữ. Nếu hôn nhân giữa những người cùng giới được luật pháp nhiều quốc gia thừa nhận dưới hình thức này hay hình thức khác2; trong bối cảnh xã hội hiện nay mặc dầu có nhiều ý kiến khác nhau về việc chấp nhận hay không chấp nhận hình thức hôn nhân này3 nhưng sự khác biệt giới tính (Différence de sexe) vẫn là điều kiện để xác lập quan hệ vợ chồng hợp pháp khi nhà làm luật sử dụng hai từ “nam-nữ” tại các điều khoản liên quan đến kết hôn/hôn nhân- điều 36.1 HP 2013; điều 3.5 và 8.1 LHNGĐ 20144. Tuy luật viết vẫn khẳng định: “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”- điều 8.2 LHNGĐ 2014 nhưng không còn đưa việc kết hôn giữa những người cùng giới tính là một trong các trường hợp cấm kết hôn như LHNGĐ 2000 trước đây đã quy định tại điều 10.5: “Việc kết hôn bị cấm…giữa những người cùng giới tinh”5. Quy định có tính mềm dẽo của điều 8.2 nói trên có lẻ nhằm phù hợp với một quy định ở cấp độ cao hơn vì điều 36.1 HP 2013 cũng chỉ ghi: “Nam, nữ có quyền kết hôn….” mà không có điều khoản nào quy định việc cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính. Với quy định của HP 2013, LHNGĐ 2014 và mới nhất là BLDS 2015 cũng chỉ ghi “Cá nhân có quyền kết hôn…”- điều 39.1; phải chăng những người cùng giới tính vẫn có thể chung sống như vợ chồng vì những quy định trên có thể cho phép hiểu đây là hình thức gián tiếp nhìn nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính? Nhưng trong khuôn khổ luật viết hiện hành thì thật khó hình dung cơ quan hộ tịch đồng ý việc đăng ký kết hôn giữa những người cùng giới tính; cuộc sống chung giữa những người cùng giới tính hầu như khó được pháp luật bảo vệ về mặt nhân thân lẫn tài sản theo những quy định của LHNGĐ 2014 mỗi khi có tranh chấp xảy ra.
11._ Đứng về mặt thực tiễn, “sự khác biệt giới tính là một đặc điểm vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính xã hội” vì trong một chừng mực nào đó, mục đích xây dựng gia đình được thể hiện qua việc sinh đẻ, nuôi dưỡng và giáo dục con cái đáp ứng với nhu cầu vật chất lẫn tinh thần của hai bên đồng thời phù hợp với truyền thống của người Việt. Chính vì vậy, ít nhất tại thời điểm này dễ dàng hiểu được tại sao nhà làm luật Việt Nam chưa thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới vì nếu ngược lại thì mục đích tạo lập gia đình không đạt.
12._ Trong khi chờ đợi những quy định cụ thể liên quan đến việc xác định giới tính của một người trên cơ sở sinh học hay cơ sở pháp lý vì trong thực tế có người ngay từ khi sinh ra đã bị xác định định nhầm giới tính thì việc xác định giới tính của mỗi người về nguyên tắc phải căn cứ vào Giấy khai sinh được cấp có thẩm quyền lập trên cơ sở của Giấy chứng sinh- điều 16.1 LHT vì đây là căn cứ xác nhận hộ tịch ban đầu của mỗi cá nhân trong đó bao gồm cả giới tính- điều 14.1.a LHT. Theo quy định của LHT khi đăng ký kết hôn hai bên nam nữ cùng có mặt- điều 18 LHT. Với quy định Thẻ căn cước có ghi giới tính của người được cấp- điều 18.1.a LCC thì những thông tin thể hiện đủ để chứng minh giới tính của hai người khi đăng ký kết hôn6.
Trường hợp xác định lại giới tính
13._ Xác định lại giới tính (Nouvelle détermination de sex) là biện pháp y học nhằm xác định đúng giới tính của một người nào đó. Đây là một quyền nhân thân có điều kiện và chỉ được thực hiện đối với người có khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác7 vì thế cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ giới tính- điều 36.1 BLDS 2015 (điều 36 BLDS 2005); điều 1.1 Nghị định 88/2008/NĐ-CP. Như vậy chỉ khi rơi vào một trong hai trường hợp trên họ mới có quyền yêu cầu y học xác định lại giới tính chính xác của mình. Chính vì vậy sự can thiệp của y học đối với một phần của cơ quan sinh dục không phải là sự chuyển đổi giới tính mà chỉ là sự chỉnh hình để giới tính được xác định rõ rãng hơn8. Trong trường hợp này cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã thực hiện việc can thiệp y tế sẽ cấp Giấy chứng nhận y tế sau khi đã xác định lại giới tính cho người đã được can thiệp y tế. Giấy chứng nhận y tế là căn cứ để đăng ký hộ tịch cho người đã được xác định lại giới tính- điều 36 BLDS 2015, điều 10 và 11 Nghị định 88/2008/NĐ-CP. Vấn đề sẽ không có gì khó khăn và cần trao đổi nếu tại thời điểm xác định lại giới tính người được xác định lại giới tính chưa kết hôn. Việc đăng ký kết hôn sẽ dựa vào thông tin về giới tính đã được ghi tại Giấy khai sinh mới nhất. Nhưng nếu người này trước đó đã kết hôn thì họ có quyền xin ly hôn, hủy bỏ kết hôn trái pháp luật hay không? Trong trường hợp luật pháp chấp nhận, nhiều quan hệ trước đây đã được thiết lập nay có nguy cơ thay đổi theo9.
Trường hợp chuyển đổi giới tính
14._ Cũng phải nói rõ việc xác định lại giới tính nói trên khác với việc chuyển đổi giới tính (Changement de sexe/Transsexualisation). Chuyển đổi giới tính (hoặc phẫu thuật chuyển giới) là khái niệm dùng để chỉ những biện pháp y khoa dùng để thay đổi giới tính của một người, trong đó bao gồm những công đoạn như phẫu thuật chuyển đổi giới tính, tiêm hoóc-môn, phẫu thuật chỉnh hình… Trước khi có BLDS 2015, nếu việc xác định lại giới tính được luật pháp thừa nhận thì việc chuyển đổi giới tính đối với những người đã hoàn thiện về giới tính lại bị nghiêm cấm- điều 4.1 Nghị định 88/2008/NĐ-CP nhằm ngăn chặn mục đích chuyển đổi giới tính để phục vụ cho các quan niệm tâm sinh lý lệch lạc hoặc vì các mục đích khác (trốn tránh trách nhiệm pháp lý, gian lận trong thể thao…)10. BLDS 2015 đã thay đổi quan điểm trên khi thừa nhận quyền này tại điều 37 theo đó: “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của Luật…. ”. Cũng như các quyền nhân thân khác, quy định của BLDS 2015 thừa nhận quyền chuyển đổi giới tính không phải không đem lại nhiều hậu quả pháp lý luôn luôn tranh cãi11.
_________________________________________________
1 Giới tính (sex) là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học, gen và các yếu tố di truyền khác-https://vi.wikibooks.org/wiki/B%E1%BB%99_m%C3%B4n_nh%C3%A2n_h%E1%BB%8Dc/Nh%C3%A2n_h%E1%BB%8Dc_v%E1%BB%81_gi%E1%BB%9Bi- Ngày lấy thông tin 27/04/2014.
2 (i)Luật 2007-308 ngày 03-05-2007 hiệu lực từ ngày 01-01-2009 định nghĩa Concubinage như là “hôn nhân thực tế biểu trưng bởi cuộc sống chung có tính ổn định và liên tục như vợ chồng giữa hai người cùng hay khác giới tính”-http://www.legifrance.gouv.fr/affichCodeArticle.do?cidTexte=LEGITEXT000006070721&idArticle=LEGIARTI000006428462&dateTexte=&categorieLien=cid- ngày lấy tin 08/12/2014
(ii) Luật 2007-308 ngày 03-05-2007 nói trên đã định nghĩa “Thỏa thuận tương trợ sống chung/Pacte civil de solidarité là một văn bản thỏa thuận được ký giữa hai cá nhân đã thành niên cùng hoặc khác giới tính nhằm tổ chức một cuộc sống chung”. http://www.legifrance.gouv.fr/affichCodeArticle.do?cidTexte=LEGITEXT000006070721&idArticle=LEGIARTI000006428463&dateTexte=20091229- Ngày lấy thông tin 12/8/2014.
(iii) Hà Lan là quốc gia đầu tiên cho phép hôn nhân đồng giới năm 2001. Sau đó các quốc gia khác (Bỉ, Tây Ban Nha, Canada, Nam Phi, Na Uy , Thụy Điển, Bồ Đào Nha, Iceland và Argentina) và năm tiểu bang ở Hoa Kỳ (Massachusetts, Iowa, Connecticut, Vermont, New Hampshire) cùng với thủ đô Mexico (Thành phố Mexico) cũng cho phép hôn nhân đồng giới. Ở 16 quốc gia khác, những người cùng giới có thể kết hợp dân sự với nhau http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B4n_nh%C3%A2n_%C4%91%E1%BB%93ng_gi%E1%BB%9Bi- Ngày lấy thông tin 12/8/2014.
3 (i) http://www.thesaigontimes.vn/Home/xahoi/doisong/49388/Hon-nhan-dong-tinh-Ung-ho-hay-khong-ung-ho?.html- Ngày lấy thông tin 23/3/2014 ; (ii) http://hongtquang.wordpress.com/2011/12/06/nhu-c%e1%ba%a7u-k%e1%ba%bft-hon-c%e1%bb%a7a-ng%c6%b0%e1%bb%9di-d%e1%bb%93ng-tinh/- Ngày lấy thông tin 23/3/2014.
4 BLDS 2015 lại sử dụng cụm từ “cá nhân”- điều 39.1 ghi: “Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn…”
5 Vấn đề này trước đây không được Luật HNGĐ 1959 và 1986 chính thức nói đến. Tại Pháp trước khi ban hành Luật 2007-308 ngày 03/05/2007; BLDS Pháp tuy không nói rõ việc ngăn cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính nhưng văn từ tại các điều 144 (nam và nữ) và điều 75 (chồng và vợ) đã cho thấy sự khác biệt giới vẫn là điều kiện kết hôn- http://www.etudier.com/dissertations/Dissertation-Sexe-Et-Mariage-L1/74626.html- ngày lấy thông tin 23/03/2014; nhưng điều 143 BLDS (được sửa đổi bởi Luật số 2013-404 ngày 17/05/2013 cho phép: “Việc kết hôn được chấp nhận giữa hai người khác giới hay cùng giới”-http://www.legifrance.gouv.fr/affichCode.do?idSectionTA=LEGISCTA000006136117&cidTexte=LEGITEXT000006070721&dateTexte=vig- Ngày lấy thông tin 18/05/2015.
6 Điều 18.1 Nghị định 158/2005/NĐ-CP có quy định khi đăng ký kết hôn các đương sự chỉ cần xuất trình Giấy chứng minh nhân dân nhưng trong Giấy chứng minh nhân dân lại không ghi giới tính vì vậy thực tiễn cán bộ hộ tịch chỉ tiếp nhận thông tin trên cơ sở Giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân được quy định tại Thông tư 08.a/2010/TT-BTP ngày 25/3/2010 của Bộ Tư pháp cũng như việc nhận dạng bên ngoài theo cảm quan thì việc kiểm tra giới tính xem như hoàn tất. Cũng có khi việc xác định giới tính bằng phương pháp trực quan gặp khó khăn do đương sự ở trong tình trạng ái nam ái nữ; tuy nhiên nếu cách xưng hô phù hợp với các ghi nhận trên giấy tờ hộ tịch thì viên chức hộ tịch có thể vẫn thừa nhận giới tính theo cách xưng hô- BLKH LHNGĐ I- Nguyễn Ngọc Điện- Sđd tr.51. Sau khi Luật căn cước ban hành thì vấn đề giới tính mới được ghi- điều 18.1.a.
7 Khuyết tật bẩm sinh về giới tính là những bất thường ở bộ phận sinh dục của một người ngay từ khi mới sinh ra, biểu hiện ở một trong các dạng như nữ lưỡng giới giả nam, nam lưỡng giới giả nữ hoặc lưỡng giới thật . Giới tính chưa được định hình chính xác là những trường hợp chưa thể phân biệt được một người là nam hay nữ xét về cả bộ phận sinh dục và nhiễm sắc thể giới tính- điều 2 Nghị định 88/2008/NĐ-CP
8 Về quyền xác định lại giới tính trong Bộ luật Dân sự 2005 và Nghị định 88/2008/NĐ-CP- https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/08/14/v%CC%80-quy%CC%80n-xa%CC%81c-di%CC%A3nh-la%CC%A3i-gi%C6%A1%CC%81i-ti%CC%81nh-trong-b%CC%A3-lu%CC%A3t-dn-s%C6%B0%CC%A3-nam-2005-va%CC%80-nghi%CC%A3-di%CC%A3nh-socirc/- Ngày lấy thông tin 27/04/2016
Xem Hậu quả pháp lý của việc xác định lại giới tính trong pháp luật Việt Nam- Đỗ Văn Đại- Đào Thị Nguyệt- Tạp chí Tòa án nhân dân số 24/2010.
10https://vi.wikipedia.org/wiki/Chuy%E1%BB%83n_%C4%91%E1%BB%95i_gi%E1%BB%9Bi_t%C3%Adnh- Ngày lấy thông tin 21/03/2015.
11 (i) Tuy nhiên trong thực tiễn vẫn xảy ra trường hợp một người sau khi tự ý chuyển đổi giới tính lại yêu cầu đăng ký kết hôn với người khác trên cơ sở giới tính mới của mình. Trong trường hợp này liệu yêu cầu của họ có vi phạm điều cấm hay không? Lúc đó vấn đề lại được đặt ra là sự xác định giới tính sẽ dựa trên cơ sở pháp lý là giấy khai sinh ban đầu hay cơ sở sinh học là giới tính thực tế vừa được chuyển đổi? Ta cần phân biệt: Trong trường hợp xác định lại giới tính cho phù hợp về mặt sinh học thì giới tính được xác định theo giới tính sau khi phẫu thuật nhưng người đăng ký kết hôn trước đó phải làm thủ tục trước cơ quan có thẩm quyền về việc xác định lại giới tính tại giấy khai sinh được lập ra ban đầu- điều 36BLDS 2005, Mục 7 Nghị định 158/2005/NĐ-CP; điều 11 Nghị định 88/2008/NĐ-CP. Nếu giới tính đã được xác định đúng về mặt sinh học nhưng vẫn tự ý phẫu thuật nhằm chuyển đổi giới tính thì phải căn cứ vào giới tính ban đầu.
(ii) Bên cạnh việc xung đột với các tư tưởng tôn giáo hoặc các giá trị văn hóa, việc cho phép chuyển đổi giới tính gây lo ngại về những hậu quả pháp lý sẽ xảy ra nếu việc này bị lợi dụng hoặc được pháp luật cho phép tiến hành, ví dụ như: Nhiều người (đa số là nam giới) sẽ chuyển đổi giới tính để trốn tránh nghĩa vụ quân sự, đặc biệt là khi đất nước sắp có chiến tranh; chuyển đổi giới tính để gian lận trong thể thao hoặc lừa đảo tài sản; chuyển đổi giới tính để trốn việc bị tòa án truy nã; chuyển đổi giới tính để hoạt động mại dâm; nếu người chuyển giới đã kết hôn thì sau khi chuyển giới, các thỏa thuận hôn nhân với chồng/vợ của họ sẽ đột nhiên trở nên vô hiệu, dẫn tới kiện cáo hoặc cố tình chuyển giới để vô hiệu hóa các thỏa thuận, điều luật trong hôn nhân (trốn tránh việc cấp dưỡng, nuôi con, chia tài sản…); nếu người chuyển giới đã có con thì đứa trẻ sẽ “bỗng nhiên” bị mất cha/mẹ trên giấy tờ nhân thân và trong cuộc sống gia đình, dẫn tới nhiều hệ lụy xấu cho đứa trẻ về sau; phẫu thuật chuyển giới dễ dẫn tới tai biến do hàng loạt các cuộc phẫu thuật liên tiếp, dẫn tới các vụ kiện cáo sau này; người đã chuyển đổi giới tính có thể sẽ thấy hối hận sau khi tiến hành, nhưng khi đã phẫu thuật rồi thì không thể đảo ngược kết quả được nữa; người tiến hành chuyển giới sẽ phải chịu sự phản đối của gia đình cũng như khó tìm việc làm, dễ dẫn tới các hành vi tiêu cực, làm tăng tỷ lệ phạm tội và bất ổn xã hội; việc phải tiêm hoóc-môn (kích thích tố giới tính) liên tục khiến người chuyển giới mắc nhiều tác dụng phụ, sức khỏe suy giảm và bị giảm đáng kể tuổi thọ, tạo ra gánh nặng cho gia đình, hệ thống y tế và an sinh xã hội.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chuy%E1%BB%83n_%C4%91%E1%BB%95i_gi%E1%BB%9Bi_t%C3%ADnh- Ngày lấy thông tin 21/03/2015
(iii). Tại châu Âu, điều 12 Bản công ước về nhân quyền cho phép các phụ nữ và người nam ở tuổi có thể kết hôn được kết hôn và lập gia đình. “Mặc dù có nhiều lời mời, cho đến nay Tòa án Nhân quyền đã khước từ việc áp dụng sự bảo vệ của điều khoản này cho hôn nhân đồng giới. Tòa án đã bảo vệ việc khước từ này với lý do là điều khoản này nhằm chỉ áp dụng cho các cuộc hôn nhân khác giới tính, và rằng một giới hạn rộng của sự nhận xét phải được đưa ra cho các bên trong lãnh vực này…Trong vụ Goodwin kiện Vương quốc Anh Tòa án đã phán quyết rằng một luật, trong đó vẫn xếp các người sau khi phẫu thuật chuyển đổi giới tính vào loại giới tính cũ trước khi phẫu thuật, thì vi phạm điều 12, vì nó cho rằng các người đã chuyển đổi giới tính không thể kết hôn với những cá nhân thuộc giới tính đối lập sau khi phẫu thuật. Phán quyết này ngược với phán quyết trước đây trong vụ Rees kiện Vương Quốc Anh . Tuy nhiên, nó cũng không thay đổi quan niệm của Tòa án là điều 12 chỉ bảo vệ các cặp vợ chồng khác giới tính”.
Công ước châu Âu về Nhân quyền, tên chính thức là Công ước bảo vệ Nhân quyền và các quyền Tự do căn bản (tiếng Anh : Convention for the Protection of Human Rights and Fundamental Freedoms) là một hiệp ước quốc tế nhằm bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn bản ở châu Âu. Công ước được soạn thảo năm 1950 bởi Ủy hội châu Âu mới được thành lập thời đó,[1] Công ước này có hiệu lực từ ngày 3.9.1953. Mọi nước thành viên của Ủy hội châu Âu đều là các bên ký kết Công ước. Công ước này lập ra Tòa án Nhân quyền châu Âu. Bất cứ ai cảm thấy nhân quyền của mình bị xâm phạm bởi các nước ký kết Công ước đều có thể đưa vụ việc ra tòa án nói trên. Các phán quyết về những vi phạm nhân quyền buộc các nước liên quan phải có nghĩa vụ thi hành. http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_%C6%B0%E1%BB%9Bc_ch%C3%A2u_%C3%82u_v%E1%BB%81_Nh%C3%A2n_quy%E1%BB%81n- Ngày lấy thông tin 13/9/2014
(iv) Quyền kết hôn và xác định lại giới tính của những người chuyển đổi giới tính- http://hongtquang.wordpress.com/2012/01/14/quy%E1%BB%81n-k%E1%BA%BFt-hon-va-xac-d%E1%BB%8Bnh-l%E1%BA%A1i-gi%E1%BB%9Bi-tinh-c%E1%BB%A7a-nh%E1%BB%AFng-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-chuy%E1%BB%83n-d%E1%BB%95i-gi%E1%BB%9Bi-tinh/Ngày lấy thông tin 13/8/2014. Mấy vấn đề quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính- Ths Ngô Thị Hường- Tạp chí Luật học số 6/2001.
I.2. Tuổi kết hôn luật định
15._ Tuổi kết hôn luật định (Âge légal pour se marier) là tuổi mà một người được phép lấy chồng/vợ và thực hiện việc đăng ký kết hôn theo pháp luật. Việc ấn định tuổi kết hôn được dựa vào mức độ phát triển về tâm sinh lý bao gồm tình trạng sức khoẻ cũng như nhận thức của người dự kiến kết hôn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của mỗi nước1. Theo quy định hiện hành: “Nam từ đủ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ đủ mười tám tuổi trở lên”- điều 8.1.a LHNGĐ 2014 là đủ điều kiện kết hôn. Quy định này nhằm có được sự thống nhất của BLDS cũng như BLTTDS trong việc thừa nhận và bảo vệ các quyền dân sự2. Cũng như xác định giới tính, việc xác định độ tuổi kết hôn về nguyên tắc cần phải dựa vào Giấy khai sinh của mỗi một đương sự vì đây là văn bản hộ tịch đầu tiên trong đó ghi rõ ngày tháng năm sinh- điều 14.1.a LHT; điều 4.1.d Nghị định 123/2015/NĐ-CPC. Trong trường hợp không xác định được ngày, tháng, năm sinh thì việc xác định độ tuổi kết hôn luật định được giải quyết như sau: (i) Nếu xác định được năm sinh nhưng không xác định được tháng sinh thì tháng sinh được xác định là tháng một của năm sinh; (ii) Nếu xác định được năm sinh, tháng sinh nhưng không xác định được ngày sinh thì ngày sinh được xác định là ngày mồng một của tháng sinh- điều 2.1 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của TANDTC-VKSNDTC và BTP.
16._ Khi nhà làm luật quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu là nhằm tránh tình trạng tảo hôn (Mariage précoce) dù thực tiễn cho thấy tình trạng này còn khá phổ biến tại Việt Nam mặc dù Luật đã dự liệu việc xử phạt hành chính hay chế tài về mặt hình sự3. Mặt khác luật cũng không ấn định độ tuổi tối đa kết hôn cũng như ngăn cản việc kết hôn giữa hai người có độ tuổi chênh lệch khá cao dù việc hình thành vợ chồng trong trường hợp này đôi khi cũng khập khiễng và nảy sinh những hệ lụy tiêu cực nhất là đối với các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Sở dĩ luật chỉ quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu mà không quy định độ tuổi kết hôn tối đa vì nhà làm luật chỉ quan tâm đến yếu tố hoàn chỉnh thể chất lẫn tinh thần của hai người nam nữ vì nó ảnh hưởng đến tình trạng tâm sinh lý đứa con có thể được sinh ra tại thời điểm này chứ không quan tâm đến khả năng sinh sản còn hay không của hai bên kết hôn4.
__________________________________________________
1 Độ tuổi kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình Việt Nam của Nguyễn Văn Tiến-Nguyễn Phương Thảo- http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_TAILIEU/Attachments/1539/%C4%90o%CC%A3%CC%82_tuo%CC%82%CC%89i_ke%CC%82%CC%81t_ho%CC%82n_trong_lua%CC%A3%CC%82t_ho%CC%82n_nha%CC%82n_va%CC%80_gia_%C4%91i%CC%80nh__vie%CC%A3%CC%82t_nam.pdf- Ngày lấy thông tin 19/10/2015.
2 Trước đây điều 9.1 LHNGĐ 2000 đã ghi: “Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên” thì được quyền kết hôn nhưng TANDTC khi hướng dẫn quy định trên đã giải thích và cho phép “Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên thì không bắt buộc nam phải từ đủ hai mươi tuổi trở lên, nữ phải từ đủ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn” mà “nam đã bước sang tuổi hai mươi, nữ bước sang tuổi mười tám là không vi phạm điều kiện kết hôn” (Mục 1.a Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP). Như vậy chỉ cần nam bước sang tuổi hai mươi, nữ bước sang tuổi mười tám là đã có thể kết hôn mà không bị coi là vi phạm điều kiện về độ tuổi kết hôn. Ví dụ: Chị Nguyễn Thị B sinh ngày 30/04/1980 thì đến ngày 30/04/1997 chị B tròn mười bảy tuổi, từ sau ngày 30/04/1997 là coi như chị B đã bước sang tuổi mười tám; do đó sau ngày 30/04/1997 trở đi chị B có quyền kết hôn. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn- với hướng dẫn, giải thích như trên lạ nay là điều 20.1. Nhưng theo quy định BLDS, người chưa đủ 18 tuổi tròn là người chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và bị đặt dưới chế định giám hộ. Như vậy sau khi kết hôn họ vẫn không có quyền thiết lập các giao dịch tài sản trong hôn nhân vì theo quy định pháp luật hiện hành các giao dịch về bất động sản, tín dụng…đòi hỏi chủ thể giao dịch phải từ đủ 18 tuổi trở lên.
Mặt khác vì cho phép nữ bước sang tuổi 17 một ngày được quyền tự do kết hôn thì nếu người này ly hôn (nguyên hay bị đơn) khi chưa đủ 18 tuổi thì quyền ly hôn, chia tài sản, chia quyền nuôi con lại bị vướng vì họ chưa có đủ năng lực hành vi dân sự, chưa được tự mình tham gia quan hệ tố tụng. Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nguyên tắc, người chưa đủ 18 tuổi khi tham gia tố tụng phải có người đại diện; nhưng đối với vụ việc ly hôn đương sự lại không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng (điều 73.3 BLTTDS 2004- nay là điều 85.4 BLTTDS 2015). Như vậy, Tòa án không thể giải quyết vụ việc ly hôn cho đến khi người vợ đủ 18 tuổi và điều này có thể gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người liên quan trong vụ việc ly hôn, hoặc trong các giao dịch mà có sự mâu thuẫn về quyền lợi giữa người vợ và người chồng. Luật viết Việt Nam cũng như các văn bản hướng dẫn chưa có một quy định ngoại lệ nào cho trường hợp nêu trên. Vấn đề này trước khi có LHNGĐ 2014 đã gây nhiều tranh luận: (i) Có được giải quyết việc ly hôn cho người vợ chưa thành niên- Nguyễn Kim Lượng – Tạp chí Tòa án nhân dân số 05/2004; (ii) Được giải quyết việc ly hôn cho người vợ chưa thành niên- Nguyễn Thị Tú- Tạp chí Tòa án nhân dân số 05/2004; (iii) Tham luận của TANDTC tại Hội nghị tổng kết thi hành LHNGĐ năm 2000 (ngày 16/4/2013) http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2013/04/20/dnh-gi-thuc-trang-quy-dinh-cua-luat-hn-nhn-v-gia-dnh-nam-2000-qua-thuc-tien-giai-quyet-cc-vu-viec-ve-hn-nhn-v-gia-dn/- Ngày lấy thông tin 10/01/2014; (iv) Báo cáo tổng kết thi hành LHNGĐ năm 2000 của Bộ Tư Pháp ngày 16/4/2013- http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2013/04/20/bo-co-tong-ket-thi-hnh-luat-hn-nhn-v-gia-dnh-nam-2000/- Ngày lấy thông tin 10/01/2014. Chính vì vậy LHNGĐ 2014 đã quy định số tuổi tròn.
Luật của Pháp quy định độ tuổi kết hôn của nam lẫn nữ tối thiểu là 18 tuổi tròn- điều 144 BLDS (được sửa đổi bởi Luật số 2013-404 ngày 17/05/2013 vì trước đó độ tuổi tối thiểu của nữ chỉ mười lăm tuổi tròn. Tuy nhiên Công tố ủy viên nơi tiến hành hôn lễ có thể cho phép miễn chấp hành tuổi quy định nếu có những lý do nghiêm trọng- điều 145 (được sửa đổi bởi Luật số 70-1266 ngày 29/12/1970). Lý do nghiêm trọng có thể là người nữ chưa thành niên đã ở tình trạng có thai- việc xem xét nghiêm trọng hay không là quyền quyết định tối thượng của Công tố ủy viên. Khi được chấp nhận việc kết hôn họ được xem như người thoát quyền (Émancipé) và được quyền tự lập dù chưa tròn 18 tuổi. Thoát quyền (Émancipation) là sự kiện pháp lý của một người chưa thành niên được toàn quyền thực hiện các giao dịch như một người thành niên, có nghĩa là người này có đầy đủ các năng lực pháp lý hưởng dụng lẫn hành sử. Điều 413-1 BLDS Pháp (được sửa đổi bởi Luật 2007-308 ngày 05/03/2007) ghi: “Người chưa thành niên đương nhiên được quyền tự lập khi kết hôn”. Mỗi khi được thoát quyền, họ trở thành người có đủ năng lực pháp lý như một người thành niên; điều 413-6 BLDS Pháp (được sửa đổi bởi Luật 2007-308 ngày 05/03/2007) ghi rõ: “Người chưa thành niên được quyền tự lập có năng lực như một người thành niên đối với hành vi trong đời sống dân sự”.
3 Điều 47 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (sau đây gọi tắt là NĐ 110/2013/NĐ-CP) quy định: “Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn; phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Tòa án nhân dân buộc chấm dứt quan hệ đó”- Xem điều 148 BLHS 1999- Bình luận khoa học BLHS của TS Phùng Thế Vắc và nhiều người khác- NXB Công an nhân dân 2001, tr.236 và kt.
4 BLKH LHNGĐ I- Nguyễn Ngọc Điện- Sđd tr 54.